Chuyển đến nội dung chính

Các chỉ số định giá doanh nghiệp

Nhóm chỉ số định giá doanh nghiệp này rất quan trọng đối với nhà đầu tư vì căn cứ trên những chỉ số này nhà đầu tư có thể so sánh doanh nghiệp đang được giao dịch trên thị trường với giá mắc hay rẻ, có xứng đáng để được đầu tư hay không và tiềm năng trong tương lai có ổn định hay không. Dưới đây là ba chỉ số chính được nhiều người dùng khi phân tích nhất.

1. Chỉ số EPS (Earning Per Share)

Đây chính là lợi nhuận sau thuế mà nhà đầu tư sẽ được nhận từ một cổ phiếu. Để tính chỉ số này bạn lấy lợi nhuận sau thuế chia cho tổng số cổ phiếu. Ví dụ, nếu lợi nhuận của công ty là 100 triệu đồng và số cổ phiếu đang lưu hành là 10 triệu cổ phiếu, thì EPS của công ty là 10 đồng trên mỗi cổ phiếu. Chỉ số này càng cao càng tốt vì nó thể hiện được khả năng kiếm tiền của doanh nghiệp. Càng cao tức là doanh nghiệp kiếm được càng nhiều tiền. Những doanh nghiệp có EPS cao và bền vững luôn là những doanh nghiệp có những lợi thế vượt trội so với các doanh nghiệp khác. Đó có thể là lợi thế về quy mô, thương hiệu hoặc độc quyền sản phẩm.

Chỉ số định giá doanh nghiệp

Tuy nhiên, khi phân tích EPS bạn cũng cần chú ý các khoảng lợi nhuận bất thường hoặc đột biến. Những khoản lợi nhuận này sẽ làm méo mó chỉ số EPS, làm cho EPS không phản ánh đúng bản chất lợi nhuận của doanh nghiệp cho cổ đông nữa.

2. Chỉ số P/E

Sử dụng chỉ số EPS phía trên. Bạn lấy giá cổ phiếu đang giao dịch trên thị trường chia cho chỉ số EPS này thì sẽ ra chỉ số P/E. Chỉ số P/E hàm ý rằng, cổ phiếu đang giao dịch gấp bao nhiêu lần so với khả năng kiếm tiền của doanh nghiệp. Nếu chỉ số P/E năm của doanh nghiệp bằng 2 thì tức là với khả năng kiếm tiền hiện giờ. Các nhà đầu tư mua doanh nghiệp này sau 2 năm sẽ hòa vốn và từ năm thứ 3 trở đi sẽ có lời. Vì tính chất trên nên P/E thấp thường báo hiệu một thương vụ hời, vì công ty đang giao dịch dưới khả năng kiếm tiền của mình. Nhưng nếu P/E thấp quá thì cũng có vấn đề. Thấp quá có nghĩa là các nhà đầu tư đang tháo chạy khỏi cổ phiếu vì họ thấy trước tương lai của cổ phiếu sẽ rất xấu. Có thể doanh nghiệp đang bị vướng vào một rắc rối pháp lý nghiêm trọng hoặc gặp sự cố bất ngờ có thể thay đổi hoàn toàn giá trị doanh nghiệp (thiên tai, cháy nhà máy….).

Chỉ số P/E thường được sử dụng để đánh giá mức độ đắt đỏ hay rẻ của một công ty so với các công ty cùng ngành hoặc so sánh với lịch sử của chính công ty đó. Nếu P/E của một công ty cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh, điều đó có thể cho thấy cổ phiếu của công ty đó đang được giá cao hơn so với giá trị thực của nó. Ngược lại, nếu P/E của công ty thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh, thì cổ phiếu của công ty đó có thể được coi là đang được giá rẻ hơn so với giá trị thực của nó.

3. Chỉ số P/B.

Chỉ số này được tính bằng cách lấy giá của cổ phiếu chia cho giá trị sổ sách (tổng tài sản – tổng nợ) của cổ phiếu đó. Nó thường được coi là giá trị tài sản ròng của công ty. Một cách hiểu dân gian, chỉ số này có nghĩa là ngay lúc này nếu mà công ty phá sản, nhà đầu tư bán tài sản công ty và chia nhau thì mỗi cổ phiếu sẽ được bao nhiêu tiền. Chỉ số này càng thấp càng tốt. Chỉ số càng thấp tức là tài sản công ty càng nhiều. Nếu P/B dưới 1 tức là công ty đang được giao dịch dưới mức tài sản của mình.

Chỉ số P/B thường được sử dụng để đánh giá giá trị của một công ty so với tài sản của nó. Nếu chỉ số P/B thấp hơn so với các công ty cùng ngành, thì công ty có thể được coi là đang được định giá thấp hơn so với giá trị tài sản của nó. Ngược lại, nếu chỉ số P/B cao hơn so với các công ty cùng ngành, thì có thể công ty đang được định giá cao hơn so với giá trị tài sản của nó.

Thường định giá bằng P/B hay được áp dụng cho các công ty tài chính. Các công ty này tài sản chủ yếu là các giấy tờ có giá và là tài sản thực. Còn P/E lại hay được áp dụng cho những công ty sản xuất, thương mại nơi tài sản khó định giá và ít được tin tưởng hơn.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chu kỳ của Benner

Samuel Benner là một phú nông thịnh vượng trước khi ông mất tất cả tài sản vào cuộc khủng hoản tài chính năm 1873 ở Hoa Kỳ. Sau thất bại ông đã cố gắng đi tìm nguyên nhân cho những biến động của thị trường và ông đã phát hiện ra một nguyên lý giải thích tính chu kỳ của thị trường Benner thậm chí đã xuất bản một quyển sách vào năm 1875 để phổ biến rộng rãi nguyên lý này. Suốt 50 năm sau đó, rất nhiều dự đoán (không phải tất cả) của ông trong quyển sách đã diễn ra chính xác. 1. Nguyên lý của chu kỳ Benner dựa trên chu kỳ gieo trồng của các loại nông sản 11 năm chu kỳ của giá ngô với các đỉnh luân phiên cách nhau 5 và 6 năm  Giá bông cũng có các đỉnh cách nhau 11 năm  27 năm chu kỳ của giá thép với các đáy là mỗi 11,9,7 năm và đỉnh là 8,9,10 năm. Ở góc độ nào đó, một người nông nhân sẽ cảm nhận chu kỳ trong dài hạn một cách dễ dàng hơn những người khác. Họ dành toàn bộ cuộc đời của mình để quan sát vòng lặp của thời tiết, nắng, mưa...Để canh tác mùa vụ. Chu kỳ 11 năm của mặt trời chắc c

MARKET MAKER , BIG BOY, CÁ MẬP. BÌM BỊP, CHIM LỢN VÀ GÀ

Bài viết được sử dụng thuyết âm mưu để viết. Tất cả mọi thứ đều là hư cấu nhà đầu tư xem giải trí chơi cho vui :v :v :v 1. MARKET MAKER Đúng như tên gọi- Nhà tạo lập thị trường hay nhà cái. Ngày xưa mình được học khi còn ở giảng đường đại học thì Market Maker mang nghĩa tích cực. Họ là những người giúp tạo thanh khoản cho thị trường và góp phần làm cho thị trường trong sạch hơn. Nhưng những Market Maker chúng ta nói đến ở đây với một định nghĩa khác mang nghĩa xấu xa và tiêu cực hơn. Market Maker là những con người giàu và siêu giàu chỉ chiếm 10% những nhà đầu tư nhưng nắm giữ 90% lượng tiền trên thị trường. Đó là những cá nhân có tiềm lực tài chính mạnh mẽ, có thế lực ngoài xã hội, có khả năng nắm bắt được các thông tin doanh nghiệp - vĩ mô sớm nhất và chi phối được media tin tức . Mục đích của nhà cái khi tham gia vào thị trường cũng giống như anh em nhỏ lẻ đó là vì TIỀN. Theo thông tin thu thập được thì lớp Market Maker hiện nay ( từ cuối 2013 đến giờ) là lớp F2. Lớp này trẻ hơn lớp

Tự do tài chính nhờ phân bổ thu nhập

Tự do tài chính là mục tiêu mà rất nhiều người hướng đến. Nếu bạn đang trên con đường tìm kiếm sự tự do nhưng chưa biết bắt đầu từ đâu. Bài viết dưới đây sẽ hướng dẫn bạn cách phân loại chi tiêu - thu nhập. Cũng như cách phân bổ dòng thu nhập vào các tài khoản quan trọng để giúp bạn đạt được mục tiêu của mình. 1. Xác định tinh thần kỷ luật Con đường dẫn đến tự do tài chính không khó, nhưng nó đòi hỏi bạn phải kiểm soát bản thân mình thật tốt. Điều kiện duy nhất để có thể thành công trên hành trình này chính là tinh thần kỷ luật. Trừ khi bạn may mắn có một xuất phát điểm tốt (gia đình khá giả, thừa kế tài sản, may mắn trúng số….) thì hành trình của bạn có thể thong thả hơn những người khác. Nhưng đa phần, chúng ta đều không được may mắn như vậy. Con đường để đến với tự do tài chính là một quá trình lâu dài. Bạn cần xác định đoạn đi trên đường này  vài năm  và tinh thần kỷ luật cần được cam kết tuân thủ. 2. Ghi chép và phân loại các khoản thu nhập, chi tiêu a. Với các khoản thu nhập
Trang chủ


Fanpage Facebook